Là hiện vật có niên đại cách ngày nay khoảng 2.000 năm, gắn với nơi Bà Triệu dấy binh khởi nghĩa vào năm 248, tại chân núi Nưa, xã Tân Ninh (nay là thị trấn Nưa, Triệu Sơn). Bảo vật Kiếm ngắn Núi Nưa hiện đang trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa được đánh giá là một kiệt tác về văn hóa, nghệ thuật, có giá trị thẩm mỹ cao, tiêu biểu cho phong cách chế tác đồ đồng lưu vực sông Mã thuộc thời đại văn hóa Đông Sơn.
Kiếm ngắn Núi Nưa được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam Đợt 2 - Năm 2013
Theo các nhà khảo cổ học, Kiếm ngắn Núi Nưa được sưu tầm vào năm 1961, dưới chân núi Nưa, xã Tân Ninh, nơi Triệu Thị Trinh dựng cờ khởi nghĩa, nay vẫn còn di tích đền thờ bà. Theo sử sách ghi lại, Bà Triệu có tên là Triệu Thị Trinh, là em gái Triệu Quốc Đạt - một hào trưởng lớn ở làng Cẩm Trướng, huyện Quân Yên (cũng tức là huyện Quan Yên),quận Cửu Chân (vào thời nhà Nguyễn, còn có tên khác là xã Cẩm Cầu, huyện Yên Định). Ngày nay, làng này thuộc xã Định Công (Yên Định). Bà là người có sức khỏe, có chí lớn và giàu mưu trí. Năm 19 tuổi, bà đã cùng anh trai tập hợp nhiều nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, mài gươm luyện võ, chuẩn bị khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của phương Bắc. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu và Triệu Quốc Đạt nổ ra vào năm 248 và được Nhân dân trong quận Cửu Chân hưởng ứng nhiệt liệt và nhanh chóng lan tỏa ra quận Giao Chỉ. Bà làm hịch truyền đi khắp nơi, kể tội nhà Ngô và kêu gọi mọi người đứng dậy đánh đuổi quân Ngô. Từ núi rừng Ngàn Nưa, nghĩa quân Bà Triệu tấn công thành Tư Phố và đã mau chóng giành thắng lợi trọn vẹn. Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền (làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc ngày nay) để xây dựng căn cứ địa. Tuy nhiên, đúng lúc khí thế nghĩa quân lên cao thì Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy Bà Triệu có lòng can đảm hơn người bèn tôn lên làm thủ lĩnh.
Trước tình hình nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, chính quyền đô hộ cử Lục Dận làm Thứ sử Giao Châu mang theo 8.000 quân tiếp viện để đàn áp cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Sau nhiều trận chiến ác liệt, nghĩa quân của bà không thể chống lại cường địch, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng, xã Triệu Lộc (Hậu Lộc),khi mới tròn 23 tuổi. Hiện, núi Tùng vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Việc phát hiện ra Kiếm ngắn Núi Nưa ngay tại nơi Bà Triệu dấy binh khởi nghĩa có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Nó khiến người dân trong vùng liên tưởng đây là thanh kiếm lệnh mà Bà Triệu vẫn thường vung lên mỗi khi xuất trận trên bành voi, khiến lũ giặc Ngô phải kinh hồn bạt vía. Đồng thời cũng có nhiều giả thiết cho rằng, hình tượng người phụ nữ trên thanh Kiếm ngắn Núi Nưa chính là nguyên mẫu Bà Triệu.
Kiếm được đúc bằng đồng, mang số ký hiệu BTTH 6723/KL:261, có chiều dài 46,5cm, rộng 5cm, với cán dài tới 18cm, nặng 620g. Kiếm ngắn Núi Nưa có hai phần: lưỡi và cán. Lưỡi hình lá mía, mỏng, có hai rìa sắc nhọn, chắn tay hình sừng trâu. Cán là khối tượng tròn hình người phụ nữ, nhìn thẳng, hai tay chống nạnh đầy uy quyền, đầu vấn khăn hình chóp, có tạo khía như búp hoa sen. Mặt người phụ nữ hình trái xoan, cằm hơi nhô ra, đôi mắt được thể hiện bằng vòng tròn đồng tâm, xung quanh có những chấm nhỏ, cặp lông mày dài, cong, sống mũi thẳng, miệng thon nhỏ, tai dài đeo đôi vòng to chấm vai, cổ và tay đeo vòng trang sức.
Phần bụng được thắt một dải rộng như cạp váy, lưng thắt dải bao dài phủ cả đằng trước và sau, váy dài trùm hết chân. Thân mặc áo chẽn dài tay, tay áo và thân bó lấy thân làm nổi rõ những đường cong cơ thể. Áo cánh xẻ ngực không cài khuy để lộ vạt yếm kín cổ bên trong.
Có thể nhận thấy, trang phục phụ nữ trên cán Kiếm ngắn Núi Nưa khá lộng lẫy, với kiểu cách cùng hoa văn hình học mang đặc trưng của nghệ thuật Đông Sơn. Căn cứ vào trang phục, trang sức và đặc biệt là hình dáng cơ thể, có thể tạm khẳng định, tượng phụ nữ trên Kiếm ngắn Núi Nưa mang dáng dấp của tầng lớp quý tộc giàu có trong xã hội đương thời. Theo đó, hình tượng người phụ nữ được tôn vinh với vẻ đẹp đầy quyến rũ trên Kiếm ngắn Núi Nưa và những dao găm có chuôi hình người thời Đông Sơn, phản ánh về một thời đại mẫu quyền, đã tồn tại trong lịch sử dân tộc cách đây 2.000 năm, nay còn thấy qua truyền thống văn hóa của một số cộng đồng người thiểu số ở Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.
Năm 2013, Kiếm ngắn Núi Nưa đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia Việt Nam đợt 2. Kiếm ngắn Núi Nưa được các nhà nghiên cứu đánh giá là kiếm ngắn đẹp nhất trong các kiếm ngắn có khối tượng người ở Việt Nam thời kỳ văn hóa Đông Sơn.
Nguồn: BTH.