Khi ngự về đồng, ông Hoàng Mười thường mặc áo vàng có thêu rồng uốn lượn thành chữ Thọ. Đầu đội khăn xếp thắt lét vàng, kim cài lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang. Sau đó, ông múa cờ chinh chiến, có khi lại ngâm thơ; nhưng cũng có lúc ông lại lấy dải lụa vàng như đang cùng người dân kéo lưới trên sông Lam, hành động này tượng trưng cho việc kéo tài lộc về cho bản đền.
Giống như ông Bảy, ông Mười cũng cầm cây hèo cưỡi ngựa đi chấm đồng. Người ta thường lấy đồng tiền mười nghìn giấy có màu đỏ vàng giả làm cờ cài lên đầu ông. Người dân dâng đọi chè xanh, miếng trầu, thuốc lá - đây là những đặc sản quê hương xứ Nghệ khi ông ngự vui, hò những điệu hò xứ Nghệ mượt mà.
Căn Ông Hoàng Mười
Người có căn ông Hoàng Mười hoặc sát căn ông sẽ có những đặc điểm giống ông. Đó là:
- Thường rất ham học hỏi, có chí tiến thủ.
- Thích những điều nhẹ nhàng, trong người có tính văn chương cao.
- Luôn biết lắng nghe người khác, luôn trân trọng các mối quan hệ và luôn sống vì người khác.
- Là người biết kết nối tập thể và hòa giải những nút thắt trong cuộc sống.
- Trong công việc, người có căn ông Hoàng Mười thường sẽ có đường công danh tốt, tuy nhiên có một số ít thì không.
Theo nhận định chung, người có căn ông Hoàng Mười một là sẽ rất thành công, hai là rất vất vả. Rất hiếm khi có người sống bình bình, ở giữa.
Bản văn Ông Hoàng Mười
Cành hồng thấp thoáng trăng thanh,
Nghệ An có đức thánh minh ra đời.
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung.
Thanh xuân một đấng anh hùng.
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam.
Hai vai nặng gánh cương thường,
Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo.
Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu,
Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi.
Khi Bích động lúc Bồng lai,
Non nhân, nước trí mọi nơi ra vào
Cỏ hoa hớn hở đón chào.
Nhớ xưa Lưu Nguyễn lạc vào Thiên thai.
Trời Nam có đức Hoàng Mười,
Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai.
Nền chí dũng, bậc thiên tài,
Văn thao – Võ lược tư Trời thông minh.
Tiêu dao di dưỡng tang tình.
Thơ Tiên một túi – Phật Kinh trăm tờ.
Khi Phong nguyệt, lúc bi từ.
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng trong.
Khi Thiếu lĩnh, lúc non Bồng,
Cành cây mắc võng, lòng sông ngự thuyền.
Người Thành thị, khách Lâm tuyền,
Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang.
Phong quang đẹp ý Đức Hoàng.
Khác nào Thu cúc – Xuân lan tới tuần.
Xiết bao bể ái, nguồn ân.
Ban Tài, tiếp Lộc, thi nhân, thi từ.
Cát đằng thuận gió xuân đưa
Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu
Năm ba Tiên nữ theo hầu,
Trăm hoa cài tóc, nhiễu Tàu vắt vai.
Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi,
Dâng câu thiên bảo chúc lời tăng long
Trần duyên chưa trút được lòng,
Đường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên.
Nghe thường hội nghị quần Tiên,
Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng.
Vân tiên mượn cánh chim hồng,
Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng?
Cầu Ô đem bắc sông Ngân,
Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng
Bóng trăng soi tỏ canh trường.
Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người.
Thủy tiên dìu dặt đón mời,
Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng.
Vượt bể đào tới ngàn xanh.
Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non.
Trúc xinh cô Quế cũng giòn
Phù dung yểu điệu – Mẫu đơn não nùng.
Ngày ngày lên núi ngóng trông.
Đỏ hai khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng.
Nhớ xưa hẹn ngọc, thề vàng.
Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi
Lên núi rồi lại xuống đồi,
Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ.
Vào rừng hái lá đề thơ,
Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người.
Cõi Trần mở tiệc mừng vui.
Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh.
Rượu đào kính chúc Thánh minh.
Phong hoa, tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương.
Ngẫm câu Thế sự vô thường
Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần
Vắng người vắng cả mùa Xuân.
Nhớ người vì Nước, vì Dân, vì Đời.
Thế gian nhớ miệng Hoàng cười
Nhớ khăn Hoàng chít, nhớ lời Hoàng ban.
Khi phố Cát, lúc đồi Ngang,
Nón kinh vó ngựa, dăm ngàn tiêu dao.
Đường đường cung kiếm anh hào,
Túi thơ, bầu rượu sớm chiều xênh xang.
Hèo hoa chảy hội Tiên hương
Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây.
Khi nương gió, lúc cưỡi mây.
Khi rung khánh ngọc khi lay chuông vàng.
Hoàng về gối xếp ai mang,
Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông.
Lệnh truyền cô Quế, cô Hồng,
Hèo hoa, gối xếp, đèn lồng tay mang.
Cô Lan, cô Huệ xếp hàng,
Gióng yên, dắt ngựa lên đàng vân du.
Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa,
Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ An
Phú chuốc rượu
Bồ đào tửu Linh Sơn tiên nữ cất
Đợi xuân về hội nghị quần tiên
Rượu nồng tiên nữ dâng lên
Tuần sơ dâng tiến án tiền mời Hoàng xơi
Hoàng cúc bôi trung đường tiên tửu
Hằng Nga thiên thượng tuyết thu ba
Tay tiên chuốc chén hoàng hoa
Nhị tuần dâng tiến mới đà thiết thi
Sao thế nhỉ trăng khi mờ khi tỏ
Gớm ghê thay nàng Ngọc Thỏ đa tình
Tay tiên chuốc chén rượu quỳnh
Tam tuần hiến, hỏi ba vạn sáu ngàn ngày là mấy.
Các đoạn thơ phú
Phú
Bởi tiền thế tu nhân tích đức
Khiến xui lên gặp bạn tiên cung
Nợ trần hoàn vương vấn chưa xong
Giục lòng khách mơ mòng tưởng nhớ
Nay đến lúc Hoàng về người ở
Thôi thôi đành vĩnh cách trường ly
Nghĩa trăm năm còn bức ca thi
Dâng hoàng tử làm khi tiễn biệt
Một lối lên tiên nhẹ gót trần
Mây trời cỏ đất hội long vân
Ba sinh gặp gỡ say vì cảnh
Một phút mơ màng vạn cảnh xuân
Văng vẳng bên tai cung đàn nguyệt
Vang vang trong động thú chào xuân
Chẳng hay cảnh ấy về đâu tá
Mong tới nguyên đào vẫn chủ nhân
Hoa đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh bước trần ai
Ước cũ duyên xưa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Cánh hạc bay cao vút tận trời
Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi
Yên hà lối trước lại lần sau
Nước biếc non xanh thắm một màu
Đàn hát hôm nay êm dìu dịu
Hạt mây này nọ sạch lầu lầu
Cây xưa lối cũ say vì cảnh
Gió mới xuân về chẳng khác xưa
Nhìn tiên cảnh năm xưa còn đứng đó
Hỏi người năm cũ bây giờ đâu.
Hò Nghệ An
Đất lề quê thói Nghệ An
Miếng trầu cau đậu dâng quan Hoàng Mười
Trông hoa lại nhớ đến Người
Đông về lại nhớ Hoàng Mười Nghệ An
Đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa
Vung gươm lên ngựa đề cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam
Chí anh hùng ra tay giữ nước
Đi tới đâu giặc phải tan ngay
Việt Nam ghi nhớ sử này
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang
Khi hội nghị luận bàn việc nước
Hoàng mang tài thao lược hiến dâng
Lĩnh sắc rồng khiển tướng điều quân
Gươm thiêng ba thước,ngựa hồng xông pha
Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ,
Đò từ Đầm Đá tới Phú Vân Lâu
Non xanh nước biếc một màu
Một con đò nhỏ đưa ghế ông về thăm cảnh Nghệ An
Cũng có phen lên ngàn xuống bể
Trở ra về phủ tía lầu son
Cũng có phen ngắm ánh trăng tròn
Khi xem huê nở khi chờ trăng lên
Đường về xứ Nghệ nghĩa tình,
Sông Lam núi Quyết địa linh bao đời,
Tam Kỳ Mỏ Hạc là nơi,
Đền thờ lăng mộ đời đời khói nhang
Nước sông Lam răng trong răng đục
Gạo chợ Chùa vừa trắng vừa trong
Ghế ông tình mặn nghĩa nồng
Điều lành điều dữ sá cùng trần gian
Muối ba năm muối kia còn mặn
Gừng chin tháng gừng hãy còn cay
Ghế ông đây tình nặng nghĩa dày
Xa xôi chăng mấy cũng về đây ngự đồng
Thuyền rồng còn đợi bến sông
Chở các thanh đồng đi hội trong Nghệ An
Cho dù cách trở sông Lam
Có cầu Bến Thuỷ bắc ngang đôi bờ
Dòng sông Lam bên lở bên bồi
Dấu thiêng Hoàng để muôn đời khói nhang
Đất Thiên Bản còn nhớ người trấn thủ
Đền Mẫu Phủ Giày còn lồng lộng chữ công danh
Ông Mười trấn thủ trong thành
Mười ba năm lẻ còn nức danh tướng tài
Thành Huế ơi sông Hương răng núi Ngự
Cầu Tràng Tiền ,Bến Thuỷ đẹp long lanh
Năm cửa ô về tới đô thành
Nam Đàn xứ Nghệ nức danh Hoàng Mười
Đường vô xứ Nghệ loanh quanh
Nơi Ông Mười ngự như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thời vô
Qua cầu Bến Thuỷ tới kinh đô Hoàng Mười
Ngắm xem phong cảnh đất trời
Nghệ An mến khách mến người trọng ân
Cỏ cây chưa trút bụi trần
Đường về chẳng biết rằng gần hay xa
Xinh thay hỡi thú yên hà
Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ nhân
Đường xa muôn dặm cũng gần
Giáng lâm giá vũ đằng vân ngự đồng
Chim khôn đã phải cẩm lồng
Cau non, thuốc lá chiều lòng (Hoàng) ăn chơi
Vân du góc bể chân trời
Không đâu lịch sự bằng nơi đền này
Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây
Sông Lam hết nước ghế ông đây chưa hết lộc tài
Độ cho đắc lộc tài sai
Thọ khang phú quý trong ngoài hanh thông
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Thu Đông tiếp lộc,hạ xuân tiếp tài
Ai mà ăn nói đơn sai
Dù cho của cải cũng để ngoài bể đông
Thương ai chấp lính nhận đồng
Tu nhân tích đức lên công vẹn thành
Ai ơi nên ở cho lành
Kiếp này chưa trọn Hoàng để dành kiếp sau
Nào trời có phụ ai đâu
Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm
Ai mà tích đức tu nhân
Đắp bồi cội phúc thêm phần đề đa
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Ghế Hoàng bao nhiêu tuổi mà vẫn hào hoa như thuở nào
Trên trời vằng vặc ngôi sao
Trời nam chói lọi anh hào cổ xưa
Thương người dầu dãi nắng mưa
Thương người đi sớm về trưa nặng lòng
Chứng tâm chứng lộc cho đồng
Cho cầu nên ước được gia trung thuận hoà
Các cô quạt nước pha trà
Quần tiên múa hát xướng ca hoạ vần
Cô dâng lên chiếc quạt trầm
Nghiên vàng bút ngọc ân cần khoan thai
Đầu lược giắt, chân giậm văn hài
Cô cả dâng điếu ngự, cô nàng hai theo hầu
Cô ba gối xếp theo sau
Đất lề quê thói cô tư têm trầu Hoàng xơi
Cô năm dâng giá gương soi
Còn cô nàng sáu rượu mời dâng ông
Cô bảy dâng đoá huê hồng
Còn cô nàng tám kiệu rồng rước (ông Mười) lên
Cô Chín múa lượn xênh tiền
Thướt tha yểu điệu khách tiên mơ màng
Cô Mười thỏ thẻ oanh vàng
Tiếng tiêu cô thổi khiến lòng Hoàng nâng nâng
Cô mười một thơ hoạ đôi vần
Dâng ông quý vật kì tân đủ mùi
Cô mười hai sắc nước hương trời
Mười hai cô tiên nữ phò giá Ông Mười lai kinh
Lý nghệ an:
Thuyền ai thả lưới buông câu
Khoan hỡi dô khoan thuyền quan hoàng thập
Dập dìu trên sông sóng nước mênh mông
Hương ngát bay trong đền lòng hoàng thấy nâng nâng
Uy danh sáng soi muôn đời một lòng giữ yên trời nam
Muôn dân bắc nam phụng thờ hoàng độ cho nước non bình an
Lòng hoàng thương đồng còn nhiều gian nan
Nắng mưa không quản xin hoàng chứng cho lòng con
Tâm tư theo cánh nhạn hồng gửi về xứ thiên trời nam
Độ cho phúc lâu giàu bền lộc vô nhà như nước dòng sông lam
Bên dòng sông lam có đền đức quan hoàng mười
Địa linh nhân kiệt vang danh lưu dấu muôn đời
Ngự đồng chơi hào hoa phong nhã
Bao người ngóng trông hộ quốc dân an cho mai sau đời đời ấm no
Phúc lai cho thanh đồng ghế ông hằng ghi nhớ mãi
Con cúi xin ông mười ông về tiếp lộc để lần sau.