Cô Bơ Thoải Phủ vốn là con gái vua Thủy Tề ở dưới Thoải Cung được phong là Thoải Cung Công Chúa. Có người còn nói rằng, Cô Bơ là con gái Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Mẫu cho theo hầu cận, chầu chực trong cung cấm.
Thần tích Cô Bơ Thoải Phủ
Có rất nhiều câu chuyện được lưu truyền về việc cô Bơ là ai. Tương truyền, cô Bơ là con gái Vua Thủy Tề dưới Thủy Cung. Cũng có tài liệu ghi chép rằng, cô là con gái của Long Vương, hầu cận cho Đức Vương Mẫu. Cô được giáng sinh xuống trần thế vào thời Lê Trung Hưng. Thần tích về sự giáng sinh của cô được lưu truyền rằng, Đức Thái Bà nằm mộng thấy một thiếu nữ xinh đẹp, thướt tha bội phần, diện xiêm y trắng tới dâng Đức Bà một viên ngọc quý rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ giáng hạ đầu thai giúp vua cứu nước. Sau đó, vào ngày 8/2, Đức Thái Bà thụ thai và sinh ra một cô con gái nhan sắc hơn người, mười phân vẹn mười như khi chiêm bao. Khi sanh cô, trời mây trên cao bỗng uốn lượn không ngừng, Thủy cung nhã nhạc cũng vang lên khiến Đức Thái Bà tin về lời báo mộng khi xưa và chắc hẳn con mình là tiên nữ hạ phàm, sau này sẽ có thể ra tay phù đời.
Quả là như vậy, cô lớn lên xinh đẹp khác người, lại giỏi văn thơ đàn hát, được Đức Thái Bà hết mực yêu thương bảo ban. Khi nhà nước bị giặc Minh đô hộ, cô cùng thân mẫu tạm lánh vào xứ Hà Trung, Thanh Hóa, gần ngã Ba sông Thác Hàn. Sử sách khi lại, cô đã có công giúp vua Lê Lợi trong việc kháng quân Minh trong những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa, sau này còn linh ứng giúp vua Lê trong công cuộc Phù Lê dẹp Mạc.
Một điển tích khác viết về Cô Bơ như sau: trong những ngày đầu kháng chiến, lực lượng quân ta vẫn rất yếu và thường xuyên bị địch truy đuổi. Một lần khi vua Lê bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Bờ, vua đã gặp cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ. Cô Bơ lập tức đóng giả vua Lê thành anh trai mình, đưa quần áo thường cho nhà vua, chôn hoàng bào dưới ruộng ngô và giả vờ đang tỉa ngô. Nhờ vậy, nhà vua thoát khỏi sự truy đuổi của quân địch. Vua rất cảm kích tấm lòng của cô, hẹn ngày sau khi đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về triều đình phong công cho cô đồng thời phong cô làm phi tử.
Sau đó, cô vẫn tận tâm hết lòng giúp đỡ quân vua Lê bằng cách bí mật chở quân sĩ, lương thực phẩm qua sông, … Đến ngày đại thắng khải hoàn, nhà vua nhớ về cô gái năm xưa đã từng giúp đỡ mình và lời hứa với cô, liền sai quân đến đón. Nhưng cô Bơ đã thác tự từ bao giờ. Có người kể rằng, cô đến lúc thác tự vẫn kiên trinh một lòng chờ đợi mà không kết duyên với ai. Cũng có bô lão nói rằng, cô đã trở về Thủy Cung sau khi giúp vua dẹp giặc. Sau này, cô vẫn thường hiển linh giúp đỡ người dân ở cùng ngã ba sông, độ thuyền bè qua sông thuận buồm xuôi gió. Nhân sinh ai gặp điều trắc trở đến van cửa Cô Bơ đều được Cô phù hộ như ý. Cô được dân chúng phong danh Cô Bơ Bông hoặc Cô Bơ Thác Hàn.
Theo cuốn “Lê Triều Thần Phả Ngoại Biên” được lưu giữ tại Thái Miếu họ Lê có ghi chép về thần tích cô Bơ Bông như sau:
“Vào khoảng năm 1432, vua Lê Lợi có một đêm mộng thấy một nữ thủy thần báo mộng: “Ta là con gái vua Thủy tề đây. Nhà vua còn nhớ là nợ ta một lời hẹn ước hay không? Bây giờ nghiệp đế vương đã thành sao chưa thấy trả”.
Vua Lê Lợi giật mình tỉnh dậy mới nhớ lại chuyện cũ. Ngày xưa, vào những năm đầu khởi nghĩa, Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp cô gái xinh đẹp, đoan trang đang tỉa ngô được cô cứu thoát. Để tỏ lòng biết ơn, nhà vua có nói với cô rằng: “Ta có một cháu trai tuấn tú, khôi ngô, văn võ song toàn. Sau này kháng chiến thành công ta sẽ gả cháu ta cho cô”.
Người mà Lê Lợi nhắc đến chính là tướng quân Lê Khôi, cháu trai của Lê Lợi (Tướng Lê Khôi chính là một trong các hiện thân của Quan Hoàng Mười được thờ tại đền Củi ngày nay). Cô gái ấy chính là hiện thân của Cô Bơ. Tương truyền, sau thắng lợi, vua Lê Lợi có quay lại tìm cô gái nhưng không thấy. Như vậy lời hứa gả cô cho tướng Lê Khôi đã không được thực hiện.
Sau giấc mơ, biết cô gái tỉa ngô nơi xưa chính là con gái vua Thủy tề, hiện thân lên cõi trần để giúp vua xây dựng nghiệp lớn, Lê Lợi đã phong cô là “Thượng Đằng Thần” và cho xây dựng đền để tưởng nhớ công lao của Cô.”
Ngoài ra, còn có các dị bản khác như:
“Vào thời mới khởi nghĩa, có một lần Lê Lợi bị giặc đuổi đến ngã ba Thác Hàn thì gặp một cô gái đang tỉa ngô. Cô đã lấy quần áo nông dân cho Lê Lợi mặc giả làm anh trai cùng tỉa ngô. Vì thế, Lê Lợi đã thoát cuộc truy đuổi. Lê Lợi rất biết ơn cô gái và có hẹn sau này chiến thắng sẽ đón cô về cung phong công và phong phi tử. Tuy nhiên, sau này khi kháng chiến thành công, Lê Lợi cho người về đón thì được biết cô gái vẫn một lòng kiên trinh chờ đợi cho đến khi thác hóa. Cô gái còn có công lớn trong việc vận chuyển quân lương, quân lính của Lê Lợi trong suốt cuộc khởi nghĩa.”
Bên cạnh đó, để ghi tạc công đức của Cô, dân gian còn lưu truyền một số huyền tích khác nói về công trạng của Cô Bơ Hàn Sơn sau khi người thác hóa:
“Vào đầu triều đại Vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497),thái úy Lê Thọ Vực, được giao trấn giữ biên ải Ba Bông. Trong một trận chiến kéo dài, tình thế nguy cấp. Đêm đó. Lê Thọ Vực đã mơ thấy một tiên nữ mặc xiêm y trắng trên mây giáng xuống ngã Ba Bông, rẽ nước bước lên kiệu võng mà nói rằng: “Hãy lui quân về Nhị Sơn hạ thủy mà vây hãm, lên núi Thạch Bàn mà cầu Mẫu thoải tất ứng linh”.
Theo lời, Lê Thọ Vực đã dẫn quân xuôi về Thác Hàn Sơn dâng lễ cầu Mẫu rồi bố trí quân binh mai phục. Ứng báo của Mẫu cho kế phá giặc là lấp đá chặn dòng, lấy thủy triều dâng, làm nghi binh nhử giặc vượt qua bãi đá ngầm, khi nước thủy triều xuống thì tổng lực phản công, thuyền giặc rút chạy bị vấp vào bãi đá ngầm, lật nhào chìm đắm rất nhiều, quân mai phục đổ ra đánh úp, quân giặc chết nhiều vô kể và thất bại thảm hại, không còn dám quấy nhiễu nữa. Để đáp lại ân đức của thánh thần, tướng quân Lê Thọ Vực tâu vua, vua Lê cho lập đền thờ Cô Bơ và đền thờ mẫu Đệ Tam ở vùng này.”
Thân thể là do vật chất nuôi dưỡng, tâm hồn cần được che chở bởi những đấng tối linh, những thần tích về cô Bơ cũng như sự linh ứng trong ngôi đền của cô sẽ là điểm tựa vững chãi cho con cháu muôn đời lui tới phụng thờ.
Đền thờ Cô Bơ Thoải Phủ
Cô Bơ được thờ tại đền cô Ba Bông, địa chỉ ngôi đền tại xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, gần ngã ba bến Đò Lèn, đường đi rất thuận tiện.
Nơi đền ngự được coi là cõi “trên bến dưới thuyền”, ngay trước cổng đền Cô Bơ Bông có một bến thuyền rất rộng rãi và sạch đẹp. Tại bến thuyền này du khách có thể kết hợp đi tới đền Mẫu Hàn Sơn và đền Cô Tám Đồi Chè.
Khánh tiệc Cô Bơ Thoải Phủ
Ngày khánh tiệc Cô Bơ Bông (Cô Bơ Thoải Phủ) chính tiệc vào ngày 12/6 (âm lịch).
Hầu giá Cô Bơ Thoải Phủ
Cô Bơ là một trong số những Thánh Cô thường xuyên ngự đồng trong bất cứ khóa lễ nào thỉnh cô đều ngự đồng. Khi loan giá ngự đồng, Cô Bơ Thoải trong trang phục áo ngũ thân trắng, đầu đội khăn vành dây có thắt lét trắng cài ba nén hương.
Khi ngự đồng Cô làm lễ tấu hương, sau đó hầu dâng dâng cô đôi mái chèo, cô khoan thai bẻ lái dạo chơi khắp nơi, bên hông giắt túi tiền đò. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, cô chèo đò du ngoạn danh lam thắng cảnh. Chèo thuyền xong, Cô lấy dải lụa hồng đi đo nước, đo mây.
Bản văn Cô Bơ Thoải Phủ
Bản 1
Nhang thơm một triện, trống điểm ba hồi
Đệ tử con, dâng bản văn mời
Dẫn sự tích thoải cung công chúa
Tiền duyên sinh ở: thượng giới tiên cung
Biến hóa lên về Động Đình trung
Thác sinh xuống, con vua thoải tộc
Điềm trời giáng phúc, thoang thoảng đưa hương
Mãn nguyệt liền, hoa nở phi phương
Da tựa tuyết ánh hường tươi tốt
Hoa cười ngọc thốt, nét ngọc đoan trang
Áo trắng hoa, chỉnh triện dung nhan
Tươi vẻ ngọc diện càng tươi sáng
Tóc mây hương thoảng, da trắng lạ lùng
Điểm yên chi, má đỏ hồng hồng
Đôi mắt phượng lóng la lóng lánh
Tai đeo vàng cánh chân dận hài hoa
Điệu lưng ong dáng ngọc thướt tha
Chuỗi tràng mạng kim sa đài các
Mỗi ngày một khác, vẻ đẹp quá ưa
Áo bạch bào phơn phớt hương đưa
Chiếc lồng cổ hây hây xạ nức
Động lòng quân tử trạnh dạ văn nhân
Nói về tài cô tài vẹn mười phân
Nói về sắc mười phần nhan sắc
Áo hoa quần trắng, tóc phượng lưng ong
Chỉnh chiện thay nhan sắc não nùng
Vịnh thơ phú ngân nga đàn hát
Phấn nhồi má hạc, sáp điểm mày ngài
Cô mặc áo màu phơn phớt lòng trai
Hài mỏ phượng khoan thai chân bước
Đàn cầm thánh thót dạo khúc năm cung
Văng vẳng nghe tiếng nhạc lạ lùng
Điểm đót nhẹ giục lòng quân tử
Ba ngàn tiên nữ trăm ả theo hầu
Người vui mừng sắm sửa trầu cau
Kẻ hầu hạ nâng khăn sửa túi
Éo le cô nhiều lỗi cách điệu trăm phần
Người thanh tân nết cũng thanh tân
Người lịch sự thêm càng lịch sự
Hằng Nga tiên tử cung quế Quảng Hàn
Vấn khăn chầu áo ngự điểm trang
Lược ngà chải, gương loan điểm đót
Khăn hồng chau chuốt chuỗi ngọc lưu ly
Vẻ thướt tha tính nết nhu mỳ
So mọi vẻ cầm kỳ thi họa
Truyền chim nhắn cá trăm sự đinh ninh
Gẩy đàn ca tang tính tang tình
Tiếng thánh thót giọng loan to nhỏ
Phỉ lòng trăng gió hội ngộ bạn tiên
Chốn Ba Bông cảnh sắc thiên nhiên
Non nọ nước ấy miền sơn thuỷ
Ấy mong tri kỷ gió lạnh sương rơi
Khen trăng già sao khéo trêu ngươi
Tiên thượng giới, bạn người hạ giới
Hoa đào còn đợi, sao thấy gió đông
Đợi rồi mong nào đã phỉ lòng
Riêng chỉ đẻ tấc lòng bối rối
Gió trăng đã trải quý tộc thiết tha
Bỗng hay đâu non nước la đà
Cánh chim nhạn cao xa bay bổng.
Bản 2 (Văn cô Ba Thoải Cung thần phù chữa bệnh)
Thần phù chỉ núi núi tan
Chỉ sông sông cạn chỉ ngàn ngàn bay
Thần phù gọi gió thét mây
Ấn thiêng quyết lĩnh ra tay khảo trừ
Thần phù tay ấn có dư
Lĩnh của Phật tổ đem về giúp dân
Nước thời lấy ở Sông Ngân
Đem về mà uống sạch không thay là
Có tà cô trục tà ra
Một là khí huyết hai là tà tinh
Trừ yêu yêu hiện nguyên hình
Tàn nhang nước thải cứu sinh cho đồng
Cô thời hóa phép thần thông
Tiếp lộc cho đồng cứu trợ bệnh nhân
Chữ rằng thánh giáng lưu ân
Thánh cô lưu phúc thiên xuân thọ trường.
Bản 3
Hàn Sơn tụ khí chung linh
Có Cô Ba Thoải giáng sinh phù đời.
Hỡi ai đi ngược về xuôi,
Sông bao nhiêu nước ơn người bấy nhiêu.
Nhớ xưa tích cũ Lê triều,
Có cô Ba Thoải mĩ miều thanh xuân.
Khăng khăng lắm vững cơ trần,
Phò Lê diệt Mạc, bao lần xông pha
Ba Bông chốn ấy quê nhà
Vì đời vững lái vượt qua thác ghềnh.
Thuyền nan rẽ sóng xung xinh,
Đón người vì nước vì tình non sông.
Hàn Sơn, Phong Mục, Ba Bông,
Ấy nơi đón khách thoát dòng gian nguy
qua cơn binh lửa bất kỳ,
Ngọc chìm đáy nưóc cô về thuỷ cung
Hoa đào còn đợi gió đông,
Xót người thục nữ, khăn hồng chưa trao.
Vẻ thanh giá ngọc càng cao,
Biết đâu quân tử mà trao duyên hài.
Nương dâu một phút biến giời
Bụi trần rũ sạch ra người cung tiên
Thuyền bè xuôi ngược các miền
Nhớ ơn công đức lập đền khói nhang
Lê triều sắc tặng ra ban
Anh hùng nghiêu nữ trung can muôn đời
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi
Sông kia dù cạn ơn người còn ghi
Đêm thanh hiện giữa Thác Hàn
Tay tiên cô gảy cung đàn nam thương
Độ người cách trở viễn phương
Bắc cầu Chức Nữ, Ngưu lang đợi chờ
Thuận dòng lá thắm đề thơ
Kẻ mong trực tiếp người chờ có khi
Ba Bông biến hiện đi về
Trăng thanh gió mát canh khuya bán hàng
Nào là kẻ Bắc người Nam
Cầu sao được vậy về đền Ba Bông
Hài cườm nón trắng tiến dâng
Tôn nhang phụng sự dốc lòng không sai
Biết ra ban lộc tiếp tài
Buôn may bán đắt gặp người gặp duyên
Ai mà bất chứng đảo điên
Nắm bạc nhiều tiền cũng đổ ra sông
Thương ai chấm lính nhận đồng
Hiếu trung trọn vẹn tam tòng đảm đang
Thưong ai núi ngọc non vàng.
Giận ai cô để nhỡ nhàng bể khơi
Giận thời uống nước cầm hơi
Khi mê khi tỉnh khi chơi khi cười
Bệnh làm tựa thể giếng khơi
Mênh mông lai láng biết trời phưong nao
Dò sông sông chẳng đủ sào
dò bể bể rộng trời cao mấy tầng
Xem ra mới biết Sự lòng
Tìm về Thoải phủ Ba Bông, Thác Hàn
Kim ngân, sớ điệp lập đàn
Dâng văn kiều thỉnh Thác Hàn Ba Bông
Thuyền rồng nón trắng tiến dâng
Khăn điều áo thắm tiền trăm, trầu trình
Hình nhân lốt trắng xinh xinh
Cứu cho lại được yên lành như chơi
Canh ba biến hiện ra người
Chiếc thoi bán nguyệt chèo chơi giữa dòng
Thác hàn tới ngã Ba Bông
thuận buồm xuôi gió thong dong đi về
Bầu trăng túi gió đè huề
Khi chơi Phố Cát lúc về Đền Dâu
Dù ai buôn bán đâu đâu
Mười hai tháng sáu rủ nhau mà về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mười hai tháng sáu thì về Ba Bông
hài cườm nón trắng tiến dâng
Lâm râm khấn nguyện chứng tâm lòng thành
Cô bơ công chúa hách danh
Mười hai cửa bể quyền hành trong tay
Thủy Cung hội yến đêm ngày
Có lệnh mẫu gọi cô về ngay Thác Hàn.
Bản 4
Bốn phương bể lặng sông trong
Thảnh thơi lầu ngọc vua phong ấn vàng
Mẫu đương ngự long sàng giấc điệp
Phút mộng thần bỗng thấy chiêm bao
Hạt châu dâng trước ngai vàng
Rằng vâng sắc chỉ cô Bơ nàng giáng sinh
Thượng tuần đỉnh tháng hai mồng tám
Bỗng trên trời nổi áng mây xanh
(Trung tuần đỉnh mười hai tháng sáu
Bỗng trên trời nổi dấu mây xanh)
Thuỷ cung nhã nhạc tập tành
Rõ ràng cô Bơ Thoải giáng sinh phàm trần
Mẫu trông thấy mười phần nhan sắc
Quả như là trong giấc chiêm bao
Phấn son tô điểm má đào
Anh hùng tài tử lối vào cung tiên
Dẫu lá ngọc mình vàng chẳng quý
Mượn non nhân nước trí làm vui
Canh ba biến hiện lên người
Chiếc thoi bán nguyệt chèo bơi giữa dòng
Thác Hàn tới ngã Ba bông
Thuận buồm xuôi gió thong dong đi về
Bầu trăng túi gió đè huề
Khi chơi Phố Cát lúc về Đền Dâu
Dù ai buôn bán đâu đâu
Mười hai tháng sáu rủ nhau mà về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mười hai tháng sáu thì về Ba Bông
hài cừom nón trắng tiến dâng
Lâm râm khấn nguyện chứng tâm lòng thành
Cô bơ công chúa hách danh
Mừoi hai cửa bể quyền hành trong tay
Thủy Cung hội yến đêm ngày
có lệnh mẫu gọi cô về ngay Thác Hàn
Bản 5
Trời Nam Hải mây lồng năm sắc,
Cõi Bắc Sơn vằng vặc trăng sao.
Bốn mùa hoa nở Đông Đào,
Có cô Bơ Thoải tiền triều hiển linh.
Tóc mườn mượt rung rinh bóng liễu,
Thẳng đường ngôi, thẳng chiếu trần gian.
Cong cong nét liễu nằm ngang,
Long lanh mắt phượng lồng gương đôi hình.
Vẻ xinh xinh da ngà điểm tuyết,
Má hồng hồng vẻ nguyệt tô son .
Thanh xuân đương độ trăng tròn,
Mày ngang bán nguyệt dương đình nở hoa.
Áo mớ ba chân hài mỏ phương,
Lưọc đồi mồi, nhẫn nhọc luồn tay.
Gương soi phấn điểm ai tày,
Cổ đeo chàng hạt, đôi tai hoãn vàng.
Vẻ dịu dàng,càng thêm linh hiển,
Cô về đồng, phán chuyện xa xôi.
Vân du góc biển, chân trời
Thông mây cưỡi gió cứu người trần gian
Đêm đêm ngồi tựa hiên loan
Tay tiên cô gảy cung đàn nam thương
Độ người cách trở viễn phương
Bắc cầu Chức Nữ Ngưu Lang đợi chờ
Thuận dòng là thắm đề thơ
Kẻ mong trực tuyết người chờ cung phi
Thiên đình định nhật chí kỳ
Xe loan đón rước cô về Thủy cung
Hoa đào còn đợi gió đông
Đợi người quân tử tơ hồng cô trao
Vẻ thanh giá ngọc càng cao
Biết đâu quân tử mà trao duyên hài
Nhớ lời mẫu gọi cô lên
Một phen gắn bó hai phen hẹn hò
Dạy cô điều nhỏ tiếng to
Hương thơm ngat ngắt thơm tho lạ lùng
Cô thương lấy ghế cô cùng
Bể sầu chưa cạn thủy cung chưa về
Cô vân ảm đạm chiều hè
Muôn dân thành thị thôn quê ơn người
Ai hùng nữ kiệt ai ơi
Uy linh quét sạch bầu trời sáng trong
Chấm đồng cô lại thương đồng
Lỡ nào cô để cho đồng hàn vi
Không thương ắt cũng nên vì
Lẽ nào cô lại chấp chi lạng vàng
(Xin cho đệ tử có khi lạng vàng)
Có công phật thánh gia ban
Mượn cầu ô thước bắc đường sông Ngân
Thương ai xa mấy cũng gần
Giận ai cách nửa bản chân cũng lìa
Đèn dầu thắp ngọn đèn khuya
Canh ba giờ tý cô về bảo ngay
Tham sân tam nghiệp đọa đày
Gian tham xảo trá tháng ngày nhuộm nhơ
Trần gian có biết bao giờ
Mê mê sảng sảng trói vò chân tay
Chiêm bao mộng hiện đêm ngày
Báo cho mà biết cô rày không tha
Phải mau sám hối Bơ tòa
Kim ngân sớ điệp lẵng hoa ba mầu
Muốn sang thời phải bắc cầu
Muốn ăn quả ngọt bảo nhau vun trồng
Cô về thưởng lộc ban công
khuông phù đệ tử hanh thông đời đời
Nhất tâm tin tưởng phật trời
Cao xanh đâu lỡ phụ người nhất tâm
Chữ rằng phật giáng lưu ân
Thần giáng lưu phúc thiên xuân thọ trường
Bản 6
Dưới Động Đình hoa rơi lai láng
Cửa rèm châu thấp thoáng bóng trăng
Đời Lê Thái Tổ trung hưng
Anh linh ra sức Liễu Thăng hàng đầu
Lệnh khoa màu theo quan sứ giả
Chọn ngày lành giáng hạ thần tôn
Ra vào ngọc điện kim môn
Danh thơm ngoài cõi tiếng đồn trong cung
Đức Mẫu Vương có lòng quảng đại
Phong cô làm công chúa thoải cung
Ngọt ngào nổi dấu thiên hương
Phấn son chải chuốt áo vàng trai lơ
Bậc thần nữ phong cô nhan sắc
Vẻ khuynh thành nhất mực trần gian
Hây hây má phấn tựa hương
Mặt hoa đầy đặn trán vuông chữ điền
Vẻ thiên nhiên hình dung tầm thước
Gót hài hoa càng bước càng xinh
Đã nên quốc sắc khuynh thành
Mày ngang bán nguyệt rành rành tựa hoa
Áo mớ ba chân hài mỏ phượng
Lược đồi mồi nhẫn ngọc luồn tay
Gương soi phấn điểm nào tày
Cổ đeo chàng mạng đôi tai hoãn vàng
Nét dịu dàng lại càng vinh hiển
Giá ngự đồng phán chuyện xa xôi
Thông chi dưới bể trên trời
Lầu son phủ tía cô ngồi thảnh thơi
Lúc nhàn hạ lên chơi tỉnh Bắc
Kén được đồng nhan sắc nết na
Thiên triều bồng báo trải qua
Quỳnh Lôi thẳng tới Thổ Hà Vạn Vân
Trải phủ Thuận qua đền Dâu Khám
Tới đền Ghềnh xuống trạm Hoàng Mai
Có phen đi hán đi hài
Qua đền Cổ Vũ Hàng Gai Hàng Bè
Trở ra về Hàng Buồm Phố Khách
Gặp Minh hồng khúc khích cười reo
Rong chơi Cầu Gỗ Hàng Đào
Trở về Hàng Bạc lại vào Phúc Tân
Tháng hai hội đền Dầm đền Sở
Ninh xá từ Đại Lộ đức Ông
Nhởn nhơ đứng mũi thuyền rồng
Khuyên luyện thanh đồng chầu chực dâng hoa
Lại trở ra cô về đền Sét
Xuống Bạch Mai bái yết chùa Vua
Dạo chơi Trưng Trắc Hai bà
Đức Viên Hoà Mã ,lại ra Tây Hồ
Có phen dạo khắp thành đô
Qua phủ Tây Hồ về tới Chân Tiên
Mời Cô trắc giáng bản đền
Phù hộ đệ tử thiên niên thọ trường
Văn cô Bơ chèo đò
Thuyền lan rước Mẫu qua sông
Độ muôn dân trăm họ thoát vòng gian nan
Nổi tiếng hò khoan (khoan khoan dô khoan)
Chân bước xuống thuyền) (khoan khoan hò khoan)
Chèo mở lái ra (khoan khoan dô khoan)
Hàn Thác chèo ra
Về Phủ Giáp Ba
Chèo về đền chính
Chèo ra Công Đồng
Chèo về Phủ Bóng
Cho tới đền Gôi
Tới nơi đền Lộ
Đền Dầm,đền Sở
Tới Ninh Xá từ
Đại lộ Đức Ông
Cô Bơ vui chơi
Đứng mũi thuyền rồng
Yêu mến thanh đồng
Lễ vật dâng hoa
Cô lại chèo ra
Về đền Cây Quế
Qua cửa Xích Đằng
Về đền Lảnh Giang
Bái yết Quan Đệ Tam
Rồi ngược dòng sông
Tới chùa Bồ Đề
Ghé qua đền Ghềnh
Chầu đức Mẫu Thoải
Lại đến đền Chầu
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Qua cửa đền Rừng
Đền Rừng,đền Núi
Qua đền Cửa Sông
Yên Định,Thái Mỗ
Chèo về đền đây
Tới phủ tới đền
Đền xinh cảnh lịch
Bốn mùa phong quang
Thuyền rằng thuyền ai
Lơ lửng bên giang
Thuyền Cô Bơ Thoải
Rước Mẫu sang đền này
Tới bến cô ơi
Xin cô gác mái chèo bơi cô lên đền.